Tất tần tật về nám da

Nám da là một dạng hội chứng mãn tính được biểu hiện dưới da ở dạng các mảng sắc tố màu nâu lốm đốm và trải đều. Mặc dù không có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, nám thường gây cho người bệnh nhiều sự tự ti và đau khổ. Dạng của các mảng sắc tố da này đôi khi được gọi là Chloasma - Da xanh, tuy nhiên thuật ngữ melasma - Da nâu vẫn được dùng nhiều hơn.

Cơ chế bệnh sinh
Nguyên nhân gây ra nám rất phức tạp. Tổ hợp sắc tố da hình thành do sự sản sinh quá mức melanin của các tế bào sắc tố da melanocyte, cá melanin này sau đó bị hấp thụ bởi các keratinocyte - Các hắc tố thượng bì hoặc phân bố tại trung bì tạo thành hắc tố trung bì melanophage. Nám có khuynh hướng gen với ít nhất 1/3 số bệnh nhân nói rằng các thành viên gia đình khác của họ cũng bị mắc bệnh, và đây là một căn bệnh mãn tính đối với hầu hết mọi người.
Những nguyên nhân hình thành nám đã được biết đến bao gồm:
- Tiếp xúc với ánh nắng mặt trời và tổn thương da do ánh nắng mặt trời - đây là yếu tố gây bệnh quan trọng và có thể phòng tránh được.
- Mang thai - Lượng estrogen tăng đột biến trong thời gian này, gây ra sự mất cân bằng sinh lý ở da và kích thích tăng tiết hoóc môn kích thích melanocyte (MSH), khiến lượng melanin tăng, ở những người phụ nữ bị nám trong trường hợp này, các sắc tố da thường mờ và tan đi vài tháng sau khi sinh.
- Điều trị bằng hoóc-môn - các viên uống tránh thai có chứa estrogen hoặc/và progesterone, quá trình thay thế hoóc-môn, các thiết bị và phương pháp tác động tử cung là những nguyên nhân tìm thấy ở 1/4 các ca bệnh nám.
- Một số các phác đồ điều trị (bao gồm xạ trị chữa ung thư), sử dụng xà phòng thơm hoặc xà phòng khử mùi, các hóa mỹ phẩm có thể dẫn đến những phản ứng quang học độc hại kích thích quá trình hình thành nám, dạng nám này thường rất khó điều trị và để lại hậu quả lâu dài.
- Những người mắc chứng suy tuyến giáp (giảm tiết hoóc môn thyroid) cũng có nguy cơ bị nám cao.
 
Nám thường xuất hiện ở người lớn khỏe mạnh và chưa mang thai. Việc tiếp xúc với nắng thường xuyên dẫn đến hình thành các mảng sắc tố ở trung bì và tồn tại tương đối lâu và ổn định, trong đó tia cực tím khiến cho các mảng này ăn sâu hơn vào da bởi tác dụng kích thích sinh MSH và khiến các melanocyte sản sinh nhiều melanin hơn. Ngoài ra các nghiên cứu hiện nay đang tìm kiếm vai trò của tế bào gốc, thần kinh, tim mạch và các yếu tố hoóc môn nội sinh trong việc kích thích tế bào sắc tố.

Nạn nhân của nám là ai?
Phụ nữ mắc nám nhiều hơn ở nam giới với tỉ lệ chỉ 1/4 đến 1/20 người mắc nám là đàn ông tùy vào tập đối tượgn nghiên cứu. Bệnh này thường xuất hiện ở độ tuổi từ 20 đến 40, tuy nhiên nó hoàn toàn có thể xuất hiện ở cả trả em và người trên 40 tuổi. Những người có làn da rám nắng hoặc nâu tự nhiên (da Fitzpatrick tuýp 3 và 4) mắc nám nhiều hơn là những người có da trắng (tuýp 1 và 2) hoặc da đen  (tuýp 5 hoặc 6).

Những biểu hiện lâm sàng của nám
Nám xuất hiện ở chủ yếu dưới dạng dát (các đốm điểm) và các mảng nâu rộng ở cả hai phía trên khuôn mặt và thường có đường bao bất thường. Sau đây là liệt kê những kiểu nám và hình dạng nám khác nhau.
- Dạng trung tâm khuôn mặt: trán, má, mũi, môi trên.
- Dạng mảng: má và mũi.
- Dạng hàm dưới: phần quai hàm.
- Dạng sưng đỏ (còn gọi là erythosis pigmentosa faciei).
- Dạng cổ: đỏ, có dấu hiệu nhăn nheo ở phía bên cổ, chủ yếu gặp ở người bệnh trên 50 tuổi.
- Dạng cánh tay: tìm thấy ở vai và cánh tay trên (còn gọi là chứng cutaneous dyschromatosis ở cánh tay).
 
Nám có thể được chia theo lớp da: nám thượng bì (phần ngoài cùng của da), nám trung bì (sâu hơn) và loại hỗn hợp. Người ta thường sử dụng đèn chiếu tia UVA1 (ánh sáng đen) để xác định độ sâu của mảng sắc tố.
Loại nám
Triệu chứng lâm sàng
Thượng bì
- Có viền nám rõ ràng.
- Màu nâu sẫm.
- Xuất hiện rõ nét hơn dưới ánh sáng đen.
- Dễ dàng điều trị.
Trung bì
- Viền nám không rõ ràng.
- Có màu nâu nhạt hoặc hơi xanh.
- Không thay đổi khi chiếu ánh sáng đen.
- Rất khó điều trị.
Loại hỗn hợp
- Loại phổ biến nhất.
- Tổ hợp của các mảng màu xanh, nâu nhạt và nâu đậm.
- Dưới ánh sáng đen có nhiều dạng.
- Tương đối khó điều trị.

Điều trị nám - Phương pháp phổ thông
- Dừng việc sử dụng các liệu pháp hoóc môn.
- Sử dụng các biện pháp chống nắng quanh năm. Kem chống nắng nên dùng loại phổ rộng và thành phần chống nắng cao (SPF 50+) lên da mặt mỗi khi ra đường, nên được thoa lại mỗi 2 tiếng nếu tiếp xúc thường xuyên với nắng đặc biệt là vào mùa hè. Đội mũ rộng vành, nếu dùng mỹ phẩm thì nên dùng loại có sẵn thành phần chống nắng.
- Sử dụng sữa rửa mặt trung tính, và với da khô thì dùng loại dưỡng ẩm nhẹ.
- Mỹ phẩm che khuyết điểm không có tác dụng trong việc che nám.

Điều trị nám - Phương pháp sử dụng kem bôi
 
1. Hydroquinone: Các phương pháp điều trị nám phổ biến nhất là chất ức chế tyrosinase mục đích là để ngăn chặn sự hình thành sắc tố mới hình thành bằng cách ức chế melanin bởi các melanocytes. Hiện bao gồm các loại kem, dung dịch (lotions, liquids), dạng gel, hydroquinone (HQ) từ 2% - 4%.
- Kem, sữa hay dung dịch hydroquinone (HQ) từ 2% được xem  như các sản phẩm không kê toa (OTC): Esoterica và Porcelana
- Kem, sữa hay dung dịch hydroquinone (HQ) 4% có các loại như Obagi, Glyquin, Tri-Luma, và Solaquin.
- Các sản phẩm có nồng độ HQ trên 2% thường yêu cầu phải được bác sỹ da liễu kê trong đơn thuốc.
- Nghiên cứu lâm sàng cho thấy rằng các loại kem có chứa 2% HQ có thể rất hiệu quả trong việc làm sáng da và ít khó chịu hơn so với nồng độ cao hơn của HQ trị nám. Những loại kem này thường được áp dụng cho các mảng vá lỗi màu nâu hai lần một ngày. Như nêu ở phần đầu điều trị, kem chống nắng nên được áp dụng chung với kem hydroquinone mỗi buổi sáng.
- Phương pháp điều trị này có thể áp dụng cho tất cả các loại nám, nhưng các loại nám ở lớp biểu bì đáp ứng tốt hơn với điều trị hơn so với những nám sâu khác bởi vì các sắc tố gần với bề mặt da.
- Để tăng hiệu quả điều trị, một số công thức được bào chế bằng cách phối hợp HQ với một số chất làm giảm sắc tố.
- Sai lầm có thể gặp phải khi điều trị bằng HQ kéo dài. Tác dụng phụ của phương pháp điều trị nám bao gồm gây viêm da kích ứng da tạm thời. Những người sử dụng điều trị HQ ở nồng độ rất cao trong thời gian dài (thường là vài tháng đến nhiều năm) có nguy cơ phát triển một tác dụng phụ gọi là ochronosis (rối loạn sắc tố da xám xanh). Hydroquinone gây ra ochronosis là một sự đổi màu da vĩnh viễn được cho là kết quả từ việc sử dụng nồng độ hydroquinone trên 4%. Hiện tượng ochronosis là khá phổ biến ở Mỹ, và phổ biến hơn ở các khu vực như châu Phi, nơi nồng độ hydroquinone có thể lên 10% -20% được sử dụng để điều trị rối loạn sắc tố da như nám. Bất kể các tác dụng phụ tiềm năng, HQ vẫn là nhất được sử dụng rộng rãi và thành công để điều trị nám trên toàn thế giới. Cơ sở y tế chăm sóc da phải thường xuyên theo dõi, và chỉ có bác sĩ là người quan trọng quyết định sử dụng điều trị HQ nám. HQ nên ngưng những dấu hiệu đầu tiên của ochronosis.
 
2. Axít azelaic 15% -20% (Azelex, Finacea): Kem azelaic acid, kem dưỡng da hoặc gel có thể được sử dụng lâu dài, và là an toàn ngay cả trong thời kỳ mang thai. Thuốc này cũng có thể có gây kích ứng.
 
3. Acid retinoic 0,025% -0.1% (tretinoin):  Retinoids tại chỗ, chẳng hạn như tretinoin là những thuốc kê toa. Nó có thể gây khó chịu và đôi khi gây ra viêm da tiếp xúc. Không sử dụng trong thai kỳ. Thường dùng dạng phối hợp với HQ và một loại steroid tại chỗ, có thể cho hiệu quả tại chỗ 60 – 80%.
 
4.  Ascorbic acid (Vitamin C) cũng có tác dụng như một chất ức chế sinh sắc tố da, tuy rằng nó không gây hại nhưng do tính thiếu ổn định cao nên chất này thường được dùng kết hợp với các thành phần khác.
 
5.  Adapalene 0,1% -0,3% (Differin gel): có tác dụng tượng tự tretionin, có thể gây kích ứng da, nổi mề đay.
 
6. Acid Kojic: Kojic acid thường được bao gồm trong công thức trị nám khi nó tương tác với đồng, theo yêu cầu của chất L-DOPA (một đồng yếu tố của tyrosinase).
Kojic acid có thể gây viêm da tiếp xúc kích ứng và ít phổ biến, tác dụng phụ là viêm da tiếp xúc dị ứng.
 
7. Alpha hydroxyacids chứa thành phần glycolic acid và lactic acid không những tẩy bào mòn da mặt mà còn làm giảm pH của da, gây ức chế hoạt động của tyrosinase, có thể làm cho da mỏng và nhạy cảm trở lại với ánh nắng.
 
8. Phương pháp đạt hiệu quả cao nhất là hỗn hợp hydroquione, tretinoin và steroid, với tác dụng xóa nám trong số 60% đến 80% bệnh nhân được điều trị. Rất nhiều loại kem trị nám khác được sử dụng với thành phần kết hợp của nhiều trong số các loại hoạt chất kể trên, tuy nhiên các sản phẩm này thường rất đắt đỏ.

Phương pháp sử dụng viên uống
 
Trong điều trị nám thượng bì, vitamin E và vitamin C có hiệu quả chỉ sau trung bình 8 tuần điều trị với liều phổ thông là 400 IU vitamin E và 500 đến 1000mg Vitamin C mỗi ngày. Vitamin E và vitamin C có tác dụng chống oxi hóa mạnh, bảo vệ thành tế bào và có khả năng tạo thành các lớp bảo vệ giữ ẩm cho da và chắn được 1 lượng tia UVB đi vào da gây kích ứng các melanocyte. Khác biệt với các loại chất chống oxi hóa khác, vitamin E, vitamin C và axit lipoic là 3 chất chống oxi hóa cơ bản không chỉ dừng lại ở 1 lần oxi hóa gốc tự do, mà các chất này còn tương tác với nhau, tự khử lẫn nhau trở về gốc hoạt tính và duy trì thời gian hoạt tính lâu hơn. 
 
Đây là một trong các phương pháp điều trị nám rất được ưa chuộng ở các quốc gia chủng tộc người da trắng như Úc và các quốc gia châu âu, đây là chất chống oxi hóa mạnh nhất trong cơ thể và cũng được duy trì trạng thái hoạt tính lâu hơn nhờ cả 3 thêm chất (cofactor) của nó là Vitamin E, C và axit lipoic. Glutathione khi được hấp thụ qua ruột non chia thành nhiều mảnh axit amin, theo đường máu đi đến các tế bào trong cơ thể và tập trung nhiều ở da sau đó tái hình thành glutathione để giúp cơ thể chống oxi hóa và tăng đề kháng trước môi trường khắc nghiệt, trong đó có L-cystine là 1 trong 3 axit amin tiền chất của glutathione có tác dụng ức chế hình thành melatonin và đào thải melatonin theo các tế bào sừng lên phần thượng bì. Đây là phương pháp nội sinh điều trị nám rất hiệu quả và an toàn, thường có tác dụng chỉ sau 10 tuần điều trị ngay cả với tình trạng nám trung bì hay nám hỗn hợp.
Theo nhiều nghiên cứu lâm sàng cho thấy việc thiếu hay thừa nội tiết tố nữ estrogen có liên hệ trực tiếp với bệnh nám da, trong quá trình mang thai, lượng estrogen trong cơ thể người phụ nữ tăng cao, và lại đột ngột hạ xuống rất thấp sau khi sinh, sự mất cân bằng này bằng cách nào đó dẫn đến việc kích thích các melanocyte sản sinh ra melanin. Vì vậy một trong các cách để điều trị nám đặc biệt là sau sinh, là bổ sung nội tiết tố nữ một cách đều đặn. Hoóc môn kích thích melanocyte MSH là một loại hoóc môn rất dễ phản ứng với các thay đổi nội tiết cũng như tác động của môi trường, ví dụ như stress cũng có thể khiên cơ thể tiết MSH một cách bất thường, vì vậy việc sử dụng soy isoflavone điều hòa nội tiết và giảm những thay đổi thất thường về cảm xúc là phương pháp an toàn và hiệu quả trong điều trị nám. Ngoài ra tinh chất mầm đậu nành soy isoflavones còn có tác dụng chống oxi hóa, kích thích hình thành collagen, do vậy là một trong những lựa chọn hàng đầu trong việc chống lão hóa da.

Hiện tại công thức trị nám của ithuoc thường xuyên có mặt bộ 3 glutathione + Vitamin C + Vitamin E + Soy isoflavones, không chỉ nâng cao sức đề kháng, giúp da chắc khỏe mà còn trắng sáng một cách tự nhiên.